Theo 555win Login tính toán từ số liệu của Cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Campuchia đạt 7,02 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2025, tăng khoảng 16% so với mức 6,04 tỷ USD tại cùng kỳ năm trước (YoY). Việt Nam nhập siêu 0,5 tỷ USD từ Campuchia, cùng kỳ năm trước xuất siêu 126 triệu USD.
Số liệu của Cục Hải quan cho thấy, Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia đạt 3,23 tỷ USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 3,78 tỷ USD, tăng 28% YoY.
Trong kỳ, Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia 28 mặt hàng chính. Dệt may là mặt hàng xuất nhiều nhất với 533 triệu USD, tăng khoảng 7% so với mức 495 triệu USD tại cùng kỳ năm trước.
Sắt thép là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai sang Campuchia với 508 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ. Các mặt hàng đứng sau lần lượt là nguyên phụ liệu dệt may, da giày với 232 triệu USD, tăng 11% YoY; phân bón với 174 triệu USD, tăng 32% YoY; giấy và sản phẩm từ giấy với 109,5 triệu USD, tăng 17% YoY.
Tổng kim ngạch 5 mặt hàng trên đạt 1,55 tỷ USD, tương ứng chiếm 48% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.
Sản phẩm từ sắt thép là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam sang Campuchia với 96,7 triệu USD, tăng 31,5% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thức ăn gia súc và nguyên liệu với 95,8 triệu USD, tăng 44,3% YoY.
Nếu như cùng kỳ năm trước, xăng dầu là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sang Campuchia với 207 triệu USD thì trong 7 tháng đầu năm 2025, mặt hàng này rơi xuống vị trí thứ 7 với 95,5 triệu USD, tương ứng giảm khoảng 54% YoY. Lượng xăng dầu xuất khẩu sang thị trường này cũng giảm từ 253.093 tấn cùng kỳ năm trước xuống còn 133.763 tấn tại kỳ này.
Một số mặt hàng xuất khẩu sang Campuchia tăng cao như rau quả với 57% YoY, lên 16,7 triệu USD; cà phê tăng 115% YoY, đạt 9,8 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 42% YoY, đạt 27,9 triệu USD; dây điện và dây cáp điện tăng 30% YoY, đạt 33,9 triệu USD...
Trong khi đó, một số mặt hàng giảm sâu như sản phẩm từ chất dẻo với -29% YoY, còn 93,9 triệu USD; gạo giảm 21,7% YoY, đạt 16,9 triệu USD; kim loại thường khác và sản phẩm giảm 17% YoY, đạt 78,8 triệu USD...
Việt Nam còn thu về 736 triệu USD từ xuất khẩu hàng hóa khác sang nước này, tăng 4,7% so với mức 703 triệu USD tại cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng cụ thể không được Cục Hải quan công bố.
Về nhập khẩu, Việt Nam chi nhiều tiền nhất để nhập khẩu hạt điều từ Campuchia với 1,38 tỷ USD, tương ứng tăng 37% so với mức 1,01 tỷ USD tại cùng kỳ năm trước. Cao su là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ hai với 510 triệu USD, tăng 11% YoY.
Các mặt hàng nhập khẩu lớn khác bao gồm nguyên phụ liệu dệt may, da giày với 50,3 triệu USD, tăng 53,6% so với cùng kỳ năm trước; quặng và khoáng sản khác với 36,8 triệu USD, giảm 1% YoY; rau quả với 33,8 triệu USD, tăng 10,1% YoY.
Trong kỳ, kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác ghi nhận tăng 23,4% so với 7 tháng đầu năm 2024, lên 23,1 triệu USD.
Ngược lại, giá trị nhập máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện lại giảm sâu 87%, từ mức 7,2 triệu USD tại cùng kỳ xuống còn 0,9 triệu USD tại kỳ này; phế liệu sắt thép đạt 2,7 triệu USD, giảm 86% so với mức 20,2 triệu USD; nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 60% YoY, đạt 6,7 triệu USD...
Việt Nam còn chi 1,7 tỷ USD để nhập khẩu hàng hóa khác từ Campuchia, tương ứng tăng 32,7% so với mức 1,28 tỷ USD tại cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng cụ thể không được Cục Hải quan công bố.