Theo số liệu vừa công bố của Cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ đạt 368 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước (YoY); nhập khẩu đạt 350 tỷ USD, tăng 18,6% YoY.
Về xuất khẩu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất với 81,8 tỷ USD, tăng tới 47% so với cùng kỳ. Mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai là điện thoại và linh kiện với 45,9 tỷ USD, tăng 4,6% YoY.
Các mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD còn bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác với 45,4 tỷ USD, tăng 12,8% YoY; dệt may với 31,2 tỷ USD, tăng 8,1% YoY.
Giày dép xuất khẩu cũng tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2024, lên 18,7 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 13,2 tỷ USD, tăng 6,3% YoY; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 13,5 tỷ USD.
Kim ngạch các mặt hàng trên đạt tổng 250 tỷ USD, chiếm 68% tỷ trọng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Trong nhóm nông thủy sản, gạo và chè tiếp tục ghi nhận giảm với lần lượt -21,9% YoY (còn 3,58 tỷ USD) và -10,3% YoY (đạt 177 triệu USD).
Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu thủy sản lại tăng 13,3% so với cùng kỳ, lên 8,7 tỷ USD; rau quả cũng tăng 11% YoY, đạt 6,5 tỷ USD; hạt điều tăng 19,3% YoY, đạt 4 tỷ USD.
Cà phê xuất khẩu ghi nhận tăng tới 61,8% YoY, lên 7,2 tỷ USD; hạt tiêu tăng 27% YoY, đạt 1,3 tỷ USD; sắn và sản phẩm từ sắn tăng 9,2% YoY, đạt 993 triệu USD.
Trong kỳ, một số mặt hàng xuất khẩu khác có mức tăng cao như sản phẩm từ sắt thép tăng 25,5% YoY, lên 4,3 tỷ USD; dây điện và dây cáp điện tăng 25,7% YoY, đạt 3,4 tỷ USD; kim loại thường khác và sản phẩm tăng 10,8% YoY, đạt 3,6 tỷ USD....
Đáng chú ý, đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận tăng tới 137% YoY, từ 2,95 tỷ USD tại cùng kỳ năm trước lên 7 tỷ USD tại kỳ này.
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu sắt thép giảm 29,4% YoY, còn 5,3 tỷ USD; chất dẻo nguyên liệu giảm 14,6% YoY, đạt 1,8 tỷ USD; xăng dầu giảm 50,8% YoY, đạt 740 triệu USD; dầu thô giảm 28,6% YoY, còn 1,07 tỷ USD...
Về nhập khẩu, Việt Nam chi 116 tỷ USD để nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, tăng tới 39,1% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng cũng tăng 24,8% YoY, lên 46,8 tỷ USD; vải đạt 11,8 tỷ USD, tăng 2,5% YoY.
Kim ngạch của ba mặt hàng trên đạt 174,9 tỷ USD, chiếm 50% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ.
Một số mặt hàng trong kỳ ghi nhận tăng cao như sản phẩm từ chất dẻo tăng 21,9% YoY, đạt 8,3 tỷ USD; kim loại thường khác tăng 17,6% YoY, đạt 8,6 tỷ USD; sản phẩm từ sắt thép tăng 25,9% YoY, đạt 6,2 tỷ USD; sản phẩm từ kim loại thường khác tăng tới 50,3% YoY, lên 3,7 tỷ USD.
Kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện cũng tăng 10,4% YoY, đạt 8,7 tỷ USD; ô tô nguyên chiếc tăng 32,1% YoY, đạt 3,6 tỷ USD; linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 20% YoY, đạt 4,3 tỷ USD....
Trong khi đó, xăng dầu nhập khẩu giảm 12,9% về giá trị so với cùng kỳ, còn 5,4 tỷ USD; dầu thô giảm 8% YoY, đạt 6,1 tỷ USD; than giảm 16% YoY, đạt 5,3 tỷ USD; hóa chất giảm 5,3% YoY, còn 6,2 tỷ USD...
Trong nhóm nông thủy sản, Việt Nam chi 3,8 tỷ USD để nhập khẩu hạt điều, tăng 37,9% YoY; rau quả với 2 tỷ USD, tăng 15,1% YoY; sữa và sản phẩm sữa với 1,1 tỷ USD, tăng 25,9% YoY; ngô đạt 2,2 tỷ USD, tăng 3,4% YoY.
Kim ngạch nhập khẩu thủy sản trong kỳ tăng tới 30,6% YoY, lên 2,5 tỷ USD; đậu tương tăng 12,4% YoY, đạt 984 triệu USD; lúa mì lại giảm 9,1% YoY, còn 1,2 tỷ USD.